Thông báo

Địa chỉ WEB hiện tại của Tiên Vực là https://tienvuc.info. Trong trường hợp không thể truy cập được, bạn hãy vào https://tienvuc.link để xem địa chỉ mới nhất và tải ứng dụng.

Cung nữ cười nói tự nhiên, tài tử hăng hái nhiệt tình.

Trong đại sảnh Long Ngâm Các, mấy trăm văn nhân rộn ràng, thi nhau xuất khẩu thành thơ. Chỉ cần trong ba câu trích dẫn kinh điển, bất kể người ngoài có hiểu hay không đều gật gù, giả bộ là bậc đồng đạo.

Trên hàng ghế thượng thủ, Tùng Bách Thanh tóc hoa râm nâng chén trà, trong mắt lộ vẻ chán ngán. Đường đường là Đại Tế Tửu Quốc Tử Giám, học trò của ông ra khắp Đại Nguyệt, làm quan nhập sĩ trải rộng, có thể nói đào lý đầy thiên hạ. Trong mắt ông, cảnh tranh danh trục lợi này chẳng khác nào trò xiếc.

Nhưng quân quyền ở Đại Nguyệt quá cao, văn nhân bị chèn ép không ngóc đầu lên nổi. Đương kim Thánh thượng muốn trọng dụng văn học, nếu không có những thi hội này, thành Trường An e rằng khắp nơi chỉ toàn cảnh luận võ, luận kiếm, giết chóc ầm ĩ, làm mất thể diện của triều đình Trung Nguyên.

Bởi vậy, dù không thích, Tùng Bách Thanh vẫn phải ngồi đây, gặp gỡ văn nhân có tài, thậm chí còn mở miệng khen ngợi vài câu. Thiên tử cũng để tâm, thậm chí còn nghiên cứu sâu về thi từ.

Có điều, thi từ đọc sách mà học thì ai cũng viết được, nhưng để truyền đời sau thì hiếm. Ngàn bài thi hội, may ra chỉ có một hai bài có giá trị, còn lại toàn cặn bã. Việc thẩm duyệt bình phẩm lần này, ông giao cho nữ nhi Tùng Ngọc Phù.

Trong sảnh, các đại nho an vị trên đài. Yến Vương Tống Ngọc bàn luận cùng Tùng Bách Thanh về khoa cử mùa xuân năm sau, còn Tùng Ngọc Phù thì nghiêm túc đọc bản thảo, thỉnh thoảng hỏi han lão nhân tóc bạc bên cạnh.

Lão nhân đó là Tề Tinh Hàm. Năm xưa một thiên “Trường An phú” khiến tiên đế coi trọng, danh chấn kinh thành, từng làm ngự sử. Ông nổi tiếng không chỉ bởi học vấn mà còn bởi tính cứng đầu. Hơn hai mươi năm trước, từng dâng sớ can gián hơn hai chục lần, bị tiên đế tức mắng thẳng “Tề lão thất phu”. Đến đời đương kim hoàng đế, ông lại dám trách cứ vì tội đi chầu muộn nửa khắc. Đến nay, mỗi lần nhắc chuyện vui chơi giải trí, Thánh thượng vẫn nhớ mà kiêng dè.

Một kẻ đầu trọc không sợ nắm tóc, lại chẳng vướng bận gia đình, quả thực muốn thẳng thì thẳng, không ai bẻ cong nổi. Nhưng tài nghệ thi từ của Tề Tinh Hàm lại khiến người người kính phục. Lúc này, ông nâng chồng bản thảo, đọc từng câu, bình phẩm công bằng, không ai dám phản đối.

Thi hội đã quá nửa, cũng xuất hiện vài bài không tệ, nhưng tuyệt bút thì chưa.

Tùng Ngọc Phù nóng ruột. Bài từ nàng từng nghe ở Quốc Tử Giám vẫn chẳng thấy đâu. Nàng sốt ruột đảo mắt nhìn khắp bàn người khác.

Thấy con gái ngồi không yên, Tùng Bách Thanh đang trò chuyện với Yến Vương liền cau mày:

“Ngọc Phù, con nhìn cái gì thế?”

Tùng Ngọc Phù giật mình, vội rụt cổ, ngồi ngay ngắn, ôn nhu đáp:

“Phụ thân, con không nhìn gì cả.”

Yến Vương ôn hòa, thấy vậy liền mỉm cười:

“Ngọc Phù tuổi còn nhỏ, yêu thích thi từ ca phú cũng là chuyện thường. Bao nhiêu năm hiếm khi xuất hiện tuyệt bút, cặn bã lại khắp nơi, e rằng nàng cũng xem mỏi mắt rồi.”

Tùng Bách Thanh gật đầu, nhìn xuống đám văn nhân trẻ tuổi:

“Thi từ phải phát ra từ cảm xúc. Tuổi còn trẻ đã ra vẻ thương xuân bi thu, sao viết được văn chương hay?”

Tề Tinh Hàm ngồi bên cạnh lắc đầu:

“Chuyện đó chưa hẳn. Trường An có trăm vạn hộ, trong đó ắt có kẻ thiên tư trác tuyệt. Như bài này chẳng hạn: Gió thổi bụi hoa thơm đã hết, mặt trời mệt cúi đầu chải tóc.”

Lời vừa cất lên, bảy tám lão nho nhíu mày đều nghiêng đầu lắng nghe.

Giữa đống câu chữ vụn vặt “Một con sông lớn trăm trượng, cá béo bơi lội”, bỗng lóe ra câu “Gió thổi bụi hoa thơm đã hết” thì chẳng khác nào rửa sạch lỗ tai, khó mà không chú ý.

Yến Vương và Tùng Bách Thanh cũng hơi nhướng mày, nghiêm túc hơn vài phần.

Tề Tinh Hàm đọc thêm hai câu, cảm thấy không thể qua loa, liền đưa bản thảo cho gia nhân, truyền tới ca cơ bên cạnh.

Mấy trăm văn nhân mỹ nữ trong sảnh biết sắp có chuyện, đều im lặng nhìn.

Ca cơ mặc y phục diễm lệ, vốn trông cậy vào cơ hội này để nổi danh. Nàng nhận bản thảo, đứng dậy, đọc một lần, rồi mới cất giọng ngân nga:

“Gió thổi bụi hoa thơm đã hết, mặt trời mệt cúi đầu chải tóc.
Cảnh còn người mất, mọi chuyện dừng, muốn nói mà nước mắt đã rơi trước.”

Giọng ca mềm mại, xen chút bi thương, diễn tả cảnh phồn hoa tàn phai, cảnh còn người mất, khiến người nghe như thấy bóng một nữ tử nhiều năm dãi dầu sương gió.

Mắt Tùng Bách Thanh sáng lên, ngồi thẳng người, chăm chú lắng nghe.

Yến Vương gõ nhẹ bàn, chậm rãi gật đầu.

Rất nhiều văn nhân trong sảnh cũng nín thở. Chỉ vài câu mà công lực đã phi phàm, ý cảnh dồi dào, ai cũng phải thừa nhận là tuyệt tác.

Không ít tiểu thư, phu nhân nhìn chằm chằm ca cơ, mắt sáng lấp lánh.

Ca cơ nghiêm giọng, đọc tiếp:

“Nghe nói song khê xuân đẹp lắm, nghĩ tới đó thả thuyền rong chơi.
Chỉ sợ dòng chảy cuồn cuộn chở không nổi nỗi sầu trong lòng.”

Khi ca khúc dứt, đại sảnh lặng đi một thoáng.

Tùng Bách Thanh vuốt râu, nhíu mày trầm ngâm. Thượng khuyết vẽ nên hình tượng nữ tử chịu đựng phong sương, hạ khuyết thì diễn tả nỗi u sầu nặng trĩu, dẫu xuân sắc mời gọi, vẫn chẳng thể nào khuây khỏa. Bất kể câu chữ hay thủ pháp, đều đạt đến tinh diệu.

Ông chậm rãi gật đầu: “Bài từ này có thể gọi là thiên cổ tuyệt xướng.”

Các danh sĩ tự nhận cũng không viết nổi, chẳng ai dám tùy tiện bình phẩm.

Yến Vương Tống Ngọc mỉm cười, nhìn quanh đại sảnh:

“Không ngờ trong thi hội lại ẩn giấu một nữ tử như thế. Chưa có tiếng tăm, chẳng phải là nhân tài bị bỏ quên sao?”

Tề Tinh Hàm cũng xúc động:

“Chỉ dựa vào bài từ này, lão phu nguyện cầu Thánh thượng an trí để vị phu nhân ấy không phải lo áo cơm. Đại Nguyệt ta coi trọng hàn môn, không phân văn võ, không phân nam nữ. Sao có thể để người có tài học như vậy phải sầu muộn mà chẳng nơi nương nhờ?”

Tùng Bách Thanh vốn không cho rằng biết làm thơ thì có thể làm quan tốt, nhưng công phu thế này, tài học hẳn chẳng kém. Ông khẽ gật đầu:

“Lời này có lý. Là vị phu nhân nào viết ra bài từ ấy?”

Trong đại sảnh, mọi ánh mắt đều tìm kiếm bóng dáng một phụ nhân dịu dàng, u sầu.

Ca cơ ngập ngừng nhìn tên ký trên bản thảo, rồi dè dặt thốt:

“Hứa Bất Lệnh…. Hứa… phu nhân?”